Đăng nhập

Cổng TTĐT Xã Thanh An - Huyện Thanh Hà

23/4/2023  |  English  |  中文

Lịch sử, văn hóa - Xã Thanh An

HỒ SƠ DI TÍCH

ĐỀN NGỌC HOA

( XÃ THANH AN- HUYỆN THANH HÀ- TỈNH HẢI DƯƠNG)

 

I.Tên gọi:

Tên tự : Ngọc Minh Từ

Tên Nôm: Đền Ngọc Hoa- Đền Phan Tảo Trang.

Tên thường gọi: Đền Ngọc Hoa.

Đền thờ Ngọc Hoa- lấy tên nhân vật lịch sử của địa phương, đồng thời là nhân vật chính trong truyện nôm khuyết danh Phạm Tải- Ngọc Hoa.

Đền Phan Tảo Trang – Đền dựng trên vùng đất thế kỷ X có tên là Tảo Sơn Trang nên nhân dân lấy địa danh đặt cho đền.

Việc gọi tên như vậy, nhưng trong khu di tích trước đây cũng như hiện nay : “ Tiền thần, Trung phật, Hậu thánh" – thờ thành hoàng Trần Công, thờ Phật và thờ Quận chúa Ngọc Hoa.

II. Địa chỉ- Đường chỉ dẫn.

  1. Địa chỉ

Các công trình công cộng: Đình , đền, chùa ở vùng đồng bằng đều được xây dựng ở những vị trí quang đãng, đẹp đẽ , trước mặt có giếng nước. Trong phạm vi quần thể kiến trúc có những cây cổ thụ to như: cây đa, cây đề, cây gạo. Sự kết hợp giữa trời, đất, nước, cỏ cây tạo nên vẻ đẹp linh thiêng, huyền bí của công trình. Khu Di tích của Đền Ngọc Hoa đưuọc xây dựng trên khu đất thuộc xóm An Bình, thôn Văn Tảo, xã Thanh An, huyện Thanh Hà. Thần tích trang Văn Tảo có nói đến ông Vãn ( Cụ thân sinh ra Trần Công), lấy vợ người bản trang truyền nghề dạy học, xem ngôi đất và thấy nói đây là vùng đất đẹp: “ Long hình cửu khúc", “ Công tâm dục tầm vương hầu chi địa. Vĩ hiển nôm đình lưu danh hậu thế" ( mảnh đất kết vương hầu). Ông đã chọn nơi này dựng nhà để ở. Sau này, dân làng cùng làm đình thờ thành hoàng trên vùng đất quý địa này.

        Đình, đền, chùa đều quay hướng nam, phí bắc giáp cánh đồng làng, cách 400m là con sông Rạng. Sông Rạng bắt nguồn từ Hà Bắc ( nay là tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh) đổ ra sông Văn Úc làm ranh giới tự nhiên giữa xã Thanh An với xã Tuấn Hưng ( huyện Kim Thành). Phía nam và phía đông là đường và khu dân cư. Phía tây di tích là đường làng- đường đi ra bến đò Văn Tảo ( còn gọi là đò Phan- đò Phạm). Qua đò sang đường 5 ( đường Hà Nội- Hải Phòng)- một con đường giao thông quan trọng, nơi đây có Ga Phạm Xá là một trong những ga lớn đón khách đi Hải Dương, Hà Nội , Hải Phòng. Cách con đường còn có hồ rộng 2.880.m 2 . Cạnh hồ là khu trung tâm Văn hoá có Nhà văn hoá và sân vận động, sân thể thao.

          Theo bia ký, thần phả trước đây thôn Văn Tảo thuộc Tảo Sơn Trang. Thời Hậu Lê (1535) gọi là Trung Trang. Trải qua thăng trầm của lịch sủ đơn vị hành chính của Tảo Sơn Trang cũng có nhiều thay đổi. Đầu thế kỷ XIX Thanh An thuộc tổng Du La, huyện Thanh Hà ( có 9 xã trong đó Văn Tảo là một xã của tổng này). Thời Pháp thuộc với chính sách chia để trị, Tảo Sơn Trang bị tách làm ba làng : Văn Tảo, Tiên Tảo, Quách An. Ngày nay Văn Tảo là một trong ba thôn của xã Thanh An, huyện Thanh Hà tỉnh Hải Dương.

          Xã Thanh An nằm ở phía đông bắc huyện Thanh Hà, phía đông giáp xã Thanh Lang, phía tây giáp xã Việt Hồng và xã Cẩm Chế, phía nam giáp xã Liên Mạc, phía bắc có con sông Rạng, có đò Phan. Sang đường 5 rất thuận tiện. Với vị trí này, Thanh An được coi là điểm quan trọng trong kháng chiến chống Pháp. Tổng diện tích hành chính của xã là 1.348 mẫu trong đó có 1.178 mẫu 9 sào 13 thước đất thổ canh. Điều kiện tự nhiên ở Thanh An có nhiều tiềm năng phát triển nông nghiệp toàn diện.

           Thôn Văn Tảo hiện nay có 1775 nhân khẩu, người dân ở đây chủ yếu làm ruộng, một số người dân kết hợp buôn bán trong những ngày nông nhàn. Đời sống của nhân dân ngày một đổi thay cùng với sự  đổi mới chung của đất nước, xã hội, con người.

          2. Chỉ đường.

Từ thành phố Hải Dương qua thăm di tích ta đi theo đường chính sau: Từ thành phố Hải Dương đi theo quốc lộ 5 ( Hải Phòng- Hải Dương) đến cầu Lai Vu ( cách thành phố 8 km) rẽ  phải theo hướng về Thanh Hà, đi qua các xã Hồng Lạc, Việt Hồng đến ngã ba ( xã Cẩm Việt- Thanh An) rẽ trái theo hướng về Thanh An. Đi khoảng 1 km tiếp tục rẽ trái 06 km là tới di tích. Từ thành phố Hải Dương về di tích khoảng 17 km.

Ngoài ra khách các nơi có thể đi đường 5 tới ga Phạm Xá xuống đò Phạm sang khu di tích.

III. Sự kiện- Nhân vật lịch sử.

  1. Đền thờ Ngọc Hoa.

Ngọc Hoa- nhân vật lịch sử của địa phương đồng thời là nhân vật chính của truyện nôm khuyết danh Phạm Tải- Ngọc Hoa.

Ngọc Hoa là con gái Trần Công ( Trần Duy Hiên) người thôn Văn Tảo. Thanh Hà đã có công giúp vua dẹp loạn. Ngọc Hoa là con gái duy nhất của tướng công, đẹp người, đẹp nết, sinh ra và lớn lên trong thời Lý. Ngọc Hoa đã tự nguyện kết duyên cùng chàng Phạm Tải – quê ở Sơn Tây ( Hà Nội) – là một tràng trai nghèo khó, hiếu học trong khi có nhiều người giầu có trong làng dạm hỏi. Biện Điền- Người thôn Tiên Tảo là người giàu có, danh giá trong làng vì không lấy được Ngọc Hoa đã mang ý định trả thù. Y đã mua gỗ quý tạc tượng Ngọc Hoa đem dâng vua. Nhân dân trong vùng đã ca ngợi vẻ đẹp của nàng:

“Quốc sắc khuynh thành thiên hạ hữu

Mỹ nữ tiết hạnh thế gian vô".

( Vẻ đẹp thiên hạ chỉ có một và tấm lòng trinh tiết cũng có một không hai ).

Khi phải vào cung ra mắt vua, Ngọc Hoa đã cố tình cải trang quần áo xộc xệch, “ Trút hài đi đất xem sao" “ Tóc mây rũ rối, mực bôi má đào" nhưng khi sánh với 300 mỹ nữ cung tần, vua trang vẫn nhận ra vẻ đẹp thanh tú của nàng. Ngọc Hoa đã dùng mọi lý lẽ khôn khéo để bảo vệ tình yêu và hạnh phúc của mình, nhưng tên vua chuyên quyền, độc đoán đã dùng mọi thủ đoạn xảo quyệt để chiếm Ngọc Hoa làm vợ. Mua chuộc Phạm Tải không được vì Phạm Tải kiên quyết chối từ mọi phú quý để bảo vệ và trung thành với tình yêu trong sáng của mình. Cuối cùng tên vua đương thời độc ác đó đã đầu độc Phạm Tải. Ngọc Hoa xin vua cho mang Phạm Tải về quê an táng và để tang chồng 3 năm. Sau 3 năm tang chồng Ngọc Hoa đã kiên quyết tuẫn tiết theo chồng không chịu làm hoàng hậu, để bảo vệ tình chung thuỷ, nghĩa vợ chồng.Trước khi chết Ngọc Hoa đã bàn với bố mẹ ( Ông Bà Trần Công) chia ruộng đất cho dân làng. Đức hy sinh, tấm lòng chung thuỷ của Ngọc Hoa được nhân dân ca ngợi:

“ Thiết thạch nhất tâm sinh Phạm Tải

Băng sương vạn cổ tử Trang Vương" .

( Một tấm lòng như sắt đá sống mãi với Phạm Tải. Muôn năm lạnh lùng như băng giá dù phải chết với trang vương).

Nhân dân còn tương truyền về khu giếng gia – giếng nhà ( Sau đền thờ hiện nay). Nơi trước khi tuẫn tiết theo chồng, Ngọc Hoa đã ném đất và nguyền rằng: “ Ai sinh ra đẹp như mình thì phải chết". Tại đền thờ Ngọc Hoa hiện còn sắc phong thời Nguyễn. Sắc chỉ ghi : “ Sắc chỉ cho xã Văn Tảo, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương phụng sự thần, thần sẽ che chở cho nhân dân.

Khải Định thứ 9 ngày 25 tháng 7 ( 1924).

          B – Đình thờ Trần Công

          Đình ra đời do yêu cầu chính trị trong mối quan hệ giữa triều đình với làng xã. Đình được xây dựng nhằm đề cao trật tự của xã hội phong kiến quân chủ. Sau đó đình được dân dã hoá để trở thành trung tâm văn hoá của làng xã. Đình trở thành trụ sợ của làng dùng để hội họp, bàn việc làng, việc xã về tín ngưỡng. Thờ thành hoàng làng chủ yếu là bài trí ở hậu cung. Khi hội họp việc làng chỉ đóng cửa hậu cung đảm bảo cho sự tôn nghiêm.

          Qua nghiên cứu thần tích, sắc phong của đình với điều tra dân tộc học được biết đình thờ Hiên Công họ Trần. Theo trần tích khi Trần Văn ( Thân phụ Trần Công) chọn được vùng đất quý, ông đã dựng nhà để ở và mở một trường dạy học. Thần phả ghi : “ Trang nương nằm mộng thấy có một đứa trẻ đi theo sau. Sau đó Trang nương sinh được một cậu con trai ( vào giừo tý ngày 04 tháng 7 năm Nhâm thìn) diện mạo khôi ngô, chân dung sinh đẹp. Năm 12 tuổi cha mẹ với đặt tên Hiên đã đỗ trạng nguyên  ( khoa Đinh mùi) được vua phong làm “ Hàn lâm viên bộ thượng thư". Cuối triều Lý, đất nước có loạn nhà vua mời các đình thần đến để hội bàn kế đánh giặc nhưng ai lấy đều bó tay. Lúc ấy Hiên Công vẫn khang khái tâu trình: “ Nay nước nhà lâm nguy, giặc đang hoành hành khắp nơi, thần xin cho phép mang quân và ngựa thân chinh đi đánh giặc. Bấy giờ giặc Ma na nghe xong phong thanh rằng nước Nam có trạng nguyên đi đánh giặc ắt sẽ dẹp tan giặc". Sau đó Hiên Công cùng quân sĩ ra trận và dẹp loạn yên. Vua phong ông làm : “ Hàn lâm viên lễ bộ thượng thư và gọi ông là Lý Trạng Nguyên.

          Nhân dân còn lưu truyền, ông hiến kế cho nhân dân phao tin khắp nơi là An Nam có trạng và “ Trạng xuất bình chi, tất bình chi" ( Trạng ra quân , tất sẽ thắng lợi). Ông cho may nhiều cờ để cắm rải rác các nơi trận chiến tuyến, giặc nghe tên sợ rút hết quân. Sau đó ông gặp triều đình làm việc. Khi ông ngoài 80 tuổi ông xin vua cho về bản quán, mở lớp dạy học. Ông thường phát trẩn cứu người nghèo, giáo dục lễ nghĩa, dạy nhân dân biết cấy trồng. Thần phả ghi nhận: “ Tấm lòng đại đức chẳng khác nào như Đường Ngu ngày trước" ( Đường Nghiêu và Ngu Thuấn là 2 ông vua đại đức củ Trung Hoa cổ đại). Ông được vua ban cho 200 mẫu ruộng ở phía tây bắc Tảo Sơn Trang  ( Thôn Văn Tảo ngày nay) làm thực ấp, nên sau này khi Ngọc Hoa tuẫn tiết theo chồng ông ban tặng đất đó cho dân làng cày cấy. Năm 90 tuổi , Trần Công mất ( Ngày 10 tháng 3 năm Bính Tuất) . Nhân dân trong làng tôn  kính ông làm biểu tâu vua. Vua sai công thần mang sắc chỉ đén bản trang và giao cho nhân dân dựng một “ Linh từ" để phụng sự. Ông được vua phong làm thành hoàng làng. Nhân dân thừo tự từ đó.

          Trong khu di tích có đình thờ thành hoàng, đền thờ thánh và còn có chùa thừo Phật. Chùa có tên gọi là “ Linh Phúc Tự". Chùa thờ Phật- khuyên con người làm việc thiện, tránh làm điều ác.

          IV. Khảo tả di tích.

Khu di tích đền Ngọc Hoa “ Tiền thần, trung phật, hậu thánh", di tích xây dựng trên xóm An Bình cảu thôn Văn Tảo - nơi có thế đất đẹp “ Long chầu hổ phục". Theo truyền ngôn di tích được xây dựng khá sớm. Thần phả cho biết , Tướng công sau khi mất được dân tôn làm Thành hoàng và nhà vua chuẩn y cho xây linh từ để thờ cúng. Vua còn quy định cả ngày hương lễ và thể lệ lễ nghi, kiêng chữ huý là Hiên" cùng với thành phụ, thánh mẫu. Đình xây cao, kiến trúc theo kiểu chữ đinh (J) ( Thần sắc năm 1572). Nhân dân cho biết đình lúc đó làm cho cả 3 thôn Tiên Tảo, Văn Tảo, Quách An. Đình xây dựng tại thôn Tiên Tảo ( Thượng trang xưa) cách di tích hiện nay về phía đông nam 1 km ( gọi là Đình Tiên Tảo).   Ngay tại bản gia ( Văn Tảo nay) nhân dân cũng làm một linh tử, hình chữ Đinh (J) để thờ cúng . Sau đó đình lớn hơn ( Đình Tiên Tảo đã bị phá và được xây dựng mới năm 2016).

Khu di tích hiện nay ( Đình và đền) kiến trúc thời Nguyễn, đình, đền, chàu trải dài trên một diện tích 3.140m2  ( 8 sào 11 thước) ngoài ra còn có diện tích hồ phía tây năm 2.880m2  ( 8 sào 6 thước). Tam quan và đình, đền, chùa trước đây đều hướng nam và hình chữ Đinh (J).

Khu di tích hiện nay phía đông nam giáp khu dân cư, phía bắc là cánh đồng, phía tây là đường đi, liền đó có hồ rộng và sân trung tâm văn hoá thôn, thuận lợi cho việc rước lễ và tổ chức các hoạt động hội trong những ngày lễ hội.

Trước kia tam quan hướng nam, cũng được trạm trổ điêu khắc rất đẹp. Tam quan hiện nay hướng tây được cấu trúc bằng chất liệu chính là gạch, vôi, xi măng ( ba mặt tây, đông, nam tây của di tích đều được xây tường bao, phía bắc có 2 ao- và có ranh giới). Tam quan nằm sát đường làng, đồng thời cũng là đường ra đò Phạm sang đường 5. Đình tam quan vẽ tản vân mặt nguyệt, giữa có đề : “ Ngọc Minh Từ". ( Đền Ngọc Hoa), tam quan cao 6.2m rộng 9.3 m. Cột chính của tam quan được ngăn cách tạo thành ba cửa vào, tiên cửa nào vảo cửa ấy. Nối liền với tam quan là 6 bậc xây gạch để xuống sân vào di tích, mỗi cấp rộng 0.6m, cao 0.15m. Tam quan có mái chóp triện, giữa 2 mặt cửa phụ có đắp bình rượu và trạm kiểu hoa đá, mặt trước có 2 cột trụ chính viết câu đối:

“Đức chính lưu quang Trần hậu hang

Thanh lạc văn chương Phạm hoàng môn".

( Ca ngợi Ngọc Hoa đức độ và Phạm Tải là con người nho nhã văn chương)

Hai cột trụ đề:

“Đền cổ tôn thờ gương tiết nghĩa

Truyện nôm sách cũ vẫn tồn lưu".

Mặt sau tam quan cũng trang trí tương tự như mặt trước, đăng đối.

Qua cổng tam quan và sân rộng bên trái là Đền Ngọc Hoa.

Đền Ngọc Hoa được xây dựng theo hình chữ Đinh ( J) hướng nam. Trước cửa đền có 3 bia ( 2 bia thời Lê và 1 bia thời Nguyễn) và có một khánh đá. Bên tả vu có một bia thời Lê – Năm Cảnh Hưng thứ 27 (1766) bia hậu thần ghi người có công đức xây dựng đền và 1 bia nguyên ghi ngày cúng giỗ , lễ thờ của những người đã cúng hậu. Hữu vu có một bia Lễ trán bia hình rồng chầu mặt nguyệt điểm trang trí hoa lá, chân vỉa chạm cánh sen, bia chạm 2 mặt và ghi tên người cúng hậu vào chùa. Bên cạnh bia còn có một khánh đá hình lưỡi rìu, có lễ tròng. Trước kia đền có 5 gian tiền tế nay là 3 gian hướng nảmộng 4.6m , dài 8.4m, cao 2.3 m. Trên nóc tiền tế đắp lưỡng long chầu nguyệt, 2 con nghê ở hai cột đồng trụ. Vào cửa chính có câu đối ca ngợi Ngọc Hoa nhan sắc và tuyết hạnh có một không hai:

“ Quốc sắc khuynh thành thiên hạ hữu

Mỹ nữ tiết hạnh thế gian vô"

Trước cửa hậu cung có ban thờ, bàn văn cổ và hai cây nến gỗ, 2 đài gỗ và 1 đài đồng, 2 mâm hồng, bình hương, lọ hoa và một bát hương thời Nguyễn chạm rồng chầu nguyệt.

Qua cửa bức bàn vào cung cấm, cửa bức bàn trước kia được làm bằng gỗ lim 4 cánh đều chạm mai điểu. Hiện nay 3 cánh bào trơn đóng bén và 1 cánh chạm mai điểu. Cung cấm tứ trụ , 2 hàng xà rộng 11.56m2  9 hình vuông, mỗi chiều 3,4m ) Cửa rộng 2.1m cao 1.8m. Phía trước có treo y môn thêu rồng chầu. Thượng lương vì cung cấm chạm: “ Lưỡng phượng chầu dương", dưới trang trí tứ mặt “ Hổ phù hàm thọ" xung quanh trang trí vân hoá long, hai bên là hai chữ thọ , lồng đăng dối. Vì kèo làm kiểu con rồng đấu sen, các cột đặt trên tảng bằng đá, ba mặt cung xây bằng gạch bát tràng, nền cũng nát bằng gạch bát tràng.

Trong cung cấm đặt hương án thờ kê trên chân tảng hình trụ bằng đá. Chân tảng đục như vây rồng cao 0.25m , đường kính 0.2m. Hương án thờ cao 0.85m dài 1.8m. Ba mặt được tiện hình lá mềm mại. Hương án có các đồ tế tự : Bát hương xứ chạm lưỡng long chầu nguyệt, 2 đài gỗ, lọ hoa, một phần của bát xà mâu chạm tứ hoá. 6 thông, mai, trúc, cúc hoá rồng, có một hộp sắc phong, một mâm bồng và hai kỷ thờ. Tượng Ngọc Hoa được ngự trong cỗ long đình, mái long đình có 4 con rồng chầu 4 góc và long đình được đặt trên sập chân quỳ dạ cá, 3 mặt chạm hổ phù hàm thọ, 2 góc là 2 con long mã, phía trước là 4 con long mã ngự 4 góc vuông, 3 mặt xung quanh bưng liền, giữa chạm lèo, trên là hổ phù hàm thọ. Mặt trước ngai trang trí lưỡi long chầu nguyệt, xung quanh long đình đều chạm lá sòi. Long đình thời Nguyễn, dài 1.4m rộng 0.9 m. Trước đây tất cả các đồ tế tự đều sơn son thiếp vàng nay sơn lại bằng sơn ta. Tượng Ngọc Hoa được tạc bằng gỗ quý theo kiểu một vị hoàng hậu, mũ dắt kim tuyến, áo tráng vàng lượt, tay cầm quạt. Phía trước tượng Ngọc Hoa đặt ba tượng nữ tỳ. Trong đó có 2 tượng vấn khăn, 1 tượng búi tóc, 1 tượng cầm bình rượu, 1 tượng cầm trầu cau, 1 tượng cầm quạt. Đây là những người đi theo hầu Ngọc Hoa.

Qua tìm hiểu kiến trúc và các đồ tế tự trong đền ta thấy Đền Ngọc Hoa có những hiện vật trang trí theo mô típ thời Nguyễn, kiến trúc Nguyễn rõ nét.

Chùa xưa kia cách Đền 20m ( về phía nam) là chùa, chàu được xây dựng theo kiến trúc hình chữ Đinh (J). Chùa xây dựng cùng với đình, đền. Hiện nay đã bị phá dỡ và nhân dân đã làm tạm một thượng điện để thơ ( cải tạo từ nhà kho cũ) và đã có kế hoạch cải tạo chỉnh chu cho phù hợp với phong cách, lối kiến trúc của chùa.

Chùa với tên gọi Linh Phúc. Trước thượng điện có treo y môn và câu đối:

“ Thiên hạ hữu hoà nhân

Phật thần tri tâm thiện"

Chùa có 4 lớp tượng thờ và có những pho tượng bài trí như ở các chùa khác. Trên ban thờ cao nhất là 3 vị tam thế, lớp thứ 2 cũng có 3 pho tượng: Phật A di đà ngồi trên toà sen, đứng bên trái là tượng quan thế âm, đứng bên phải là tượng Đại thế chí, Lớp thứu 3 cũng có 3 pho tượng: Giữa là tượng thích ca tay cầm bông sen ngồi trên toà sen, hai bên là hai thị giả. Lớp thứ 4 : Giữa là Phật thích ca đứng trên toà sen, hai bên là tượng Đế thích và tượng Phạm Vương, ở đây còn bài trí thêm một số tượng thờ, có 21 pho tượng thờ.

Trong chùa còn có tượng 4 vị sư tổ đã trụ trì ở đây trong đó có 1 vị đỗ hoà thượng giỗ ngày 12 tháng 1. Trước kia vào ngày này dân làng mở cửa chùa tế lễ và có rước cỗ long trọng.

C-Đình thờ Tướng Trần Công.

Đình thờ Trần Công còn lại phần hậu cung xưa, hình chữ nhất . Trước đây hình chữ Đinh (J). Đình rộng 5.8 m, dài 6.8. Trên noc là đao tầu réo góc, đắp 2 con nghê hiện đã sứt mẻ nhiều. Hai góc đao phía trước để trơn, 2 kẻ góc có tàu góc để lên và có 2 mũi cày sắt đỡ tàu góc tạo nên độ vững chãi của đình. Mái làm kiểu mê đái rện kết cấu theo kiểu ván bưng, con bài bằng gỗ tứ thiết, chái bồ câu. Cửa bức bàn 3 gian ( 1 cửa chính, 2 cửa phụ ). Trước kia bộ cửa này ở trong cung cấm, nay cung cấm để thông thoáng. Bốn đầu bẩy có châm bốn chữ thọ. Hai đầu bẩy chính cung chạm khắc hài hoà, bẩy trái má phải chạm rồng, má trái chạm mai điểu. Hai bẩy phụ chạm hoa lá. Cửa bức bàn, cửa chính rộng 2m cao 1.5m, hai cửa phụ phía trên chạm hoa lá và diềm cửa làm cong hình vành bia, mỗi cửa phụ cao 1.4m, rộng 0.6m.

Đình kiến trúc theo kiểu tứ trụ 4 hàng xà ( kèo chống cốn con chồng đốc thước). Qua cửa bức bàn vào chính cung, bên hữu đặt bức bia hậu thời Nguyễn dựng năm Minh Mệnh thứ 15 (1834). Cửa võng triện hoa lá, giữa chạm mặt hình hổ phù. Vì kèo chính cung trên thượng lương chạm “ Lưỡng long chầu nguyệt", hai bức cốn chạm rồng. Tất cả các cột đều đều đặt trên chân tảng bằng đá, hình bát giác cao khoảng 0.25m . Khoảng cách từ cột đến các cột quân  (xà lách) rộng 1.1m, hai cột cách nhau 2.5m. Gian trung tâm trên sập hồi văn đặt các đồ tế tự, có một bát hương sứ thời Nguyễn chạm chầu chồng nguyệt, một mâm bồng, 1 kỷ thờ, 2 ống hương, 1 giá hốt, 2 bát hương, đặc biệt có 2 bài vị thờ. Hai bài vị trước có viết chữ thờ thân phụ, thân mẫu ( bố mẹ Trần Hiên), phía trên bài vị chạm lưỡng long chầu nguyệt, điểm bài vị chạm rồng cuốn hướng lên phía trên. Hai bên tả hữu đặt tượng Khuyến Thiên và rừng ác cao 1.5m, tượng đặt trên bệ trụ cao 0.6m và có bát hương thờ.

Vì vâò cung cấm ngày xưa, trên thượng lương cốn mê triên lá giữa khắc con phượng bay, 2 bức cốn đều triện độc long xinh độngvà uyển chuyển. Giữa vì cung cấm có treo bức đại tự sơn son chữ vàng đề: “ Thánh cung vạn tuế", 2 bên đại tự trang trí mai hoá long. Trước cửa cung cấm treo y môn. Trong cung cấm có đặt bàn thờ dài 1.9m, rộng 1.8m cao 1.3m Trên bàn có các đồ tế tự như ngai, bát hương, mâm bồng, lọ hoa, 2 hộp đựng sắc phong ( có 7 sắc phong cho đức thành hoàng Trần Hiên). Sắc phong đều ở thời Nguyễn vào các năm Tự Đức thứ 6 (1853); Tự Đức thứ 33 ( 1880); Đồng Khánh thứ 2 ( 1887); Duy Tân năm thứ 33 (1909); Khải Định thứ 9 ( 1929). Sắc phong của vua Tự Đức thứ 6 ghi :

… và sắc chỉ cho xã Văn Tảo, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương nguyện phụng sự thần hiệu……

Cảnh mênh ban bố ơn rộng rãi, đặc biệt chuẩn phong thành hoàng chi tuần, Sắc phong có một đao, tặng là bản canh thành hoàng linh phù chi tuần ( linh thiêng phù giúp) lại chuẩn hứa bản xã phong sư thần, thần sẽ chư chơ, bảo vệ cho nhân dân.

Chính cung là tượng Đức thành hoàng đặt trên ban thờ rộng 0.9m cao 1.6m dài 1.9m . Tượng đặt trong long đình cao 1.9m rộng 0.9 m và kê trên sập hình vuông mỗi chiều dài 0.9m . Ba mặt sập trang trí hoa lá giữa sập là hình rồng chầu. Tượng Trần Công cao 1.1m ngự trong ngai chạm long chầu, 6 cột nai đều chạm hình đầu rồng ,2 đầu bộ ngai chạm lượng phượng. Đức thành hoàng làng đội mũ hình cánh chuồn có trang trí “ Lưỡng long chầu nguyệt" tượng được tác như một vị quan đại thần. Bên cạnh tượng có đặt một đôi kiếm, một đôi kích. Theo tương truyền và thần phả Đức Thành Hoàng  văn võ kiêm toàn. Tượng Đức Thánh bà ( Đào Phi) cao 0.8m và được đặt trên sập gỗ rộng 0.6m dài 0.7m cao 1.3m. Tượng đặt bên hữu tượng Đức thành hoàng. Tượng mang vẻ dịu dàng, đôn hậu của của người phụ nữ.

Phía tiền của đình làm theo kiểu đao tầu réo góc còn phía hậu theo kiểu bằng dốc ( cột tứ trụ giáp tường qua bẩy phụ). Ba mặt cảu hậu cung đều xây gạch chỉ, nền cũng nát ghạch chỉ, tương truyền hậu cung làm trên ngôi mộ của Ngài. Tường sau của Đình mặt hướng bắc có đắp hộ phù hàm thọ, 2 góc là 2 con long mã, bên hữu đắp quy sen, bên tả đắp vân phụng. Phần hồi này đã được trùng tu lại theo tiêu bản thời Nguyễn.

Tuy đình thấp và hẹp xong phần trang trí các vì và các bức cốn, cửa võng rất xinh động hài hoà. Các đồ tế tự chạm tứ linh, tứ quý uyển chuyển làm tăng vẻ đẹp cho hiện vật. Đình mang kiến trúc và điêu khắc thời Nguyễn rõ nét.

Ngày xưa lễ hội bắt đầu tư ngày 06 tháng 2 âm lịch ( ngày mất của Ngọc Hoa) kéo dài đến hết tháng. Cũng vào ngày giỗ Thanh Hoàng làng 10 tháng 3 âm lịch, người dân dâng xôi thịt, rượu và tế lễ cùng với tế cá, ngày sinh 10 tháng 7 và đặc biệt là ngày khánh lễ 12 tháng 1 ( trước lễ chay rồi đến lễ mặn). Lễ đăng khoa, rước to, ăn mừng, với các hoạt động đánh cờ, múa rối, cầu thùm, đấu vật, hát chèo đấu giáo ngựa. Lễ hội được tổ chức từ mồng 4 đến 12 Tết cũng tổ chức vui chơi. Những năm gần đây nhân dân tổ chức lễ hội vào ngày 04 đến 06 tháng 2 âm lịch.  Ban quản lý di tích lịch sử Đền Ngọc Hoa và các cơ sở thôn đãphối hợp tổ chức Lễ Hội Di tích Lịch sử Đền Ngọc Hoa và Lễ hội Thành Hoàng các làng để duy trì những nét truyền thống của Lễ Hội và quảng bá lễ hội tới nhân dân địa phương và du quý khách thập phương ; Trong công tác tổ chức Lễ hội nộiđược Ban tổ chức đã xây dựng nội dung lễ hội đảm bảo gìn giữ những nét đẹp truyền thống của Lễ hội, bên cạnh đó cũng phát triển thêm những nội dung mới nhằm làm phong phú thêm tính đa dạng của lễ hội tập trung vào các phát triển thêm về phần hội( như các trò chơi dân gian kéo co, nấu cơm, bắt vịt, trưng bày cây cảnh….) nhằm thu hút sự quan tâm và tham gia của nhân dân và du khách thập phương, đặc biệt trong những năm gần đây Ban quản lý di tích đến Ngọc Hoa nhân trong dịp tổ chức lễ hội đã phối hợp với các nhà trường để tổ chức cho các em học sinh tham gia trải nghiệm tại lễ hội để các em hiểu rõ hơn về truyền thống, lịch sử của quê hương mình.

           V. Phân loại di tích.

Qua khảo sát di tích và nghiên cứu thần phả, sắc phong hiện còn ta thấy di tích kiến trúc thời Nguyễn. Tuy cách ngày nay không lâu song nó giúp ta hiểu them một tiêu bản về kiến trúc thời Nguyễn. Tư liệu di tích liên quan đến những nhân vật có thực trong lịch sử ( Trần Duy Hiên và Ngọc Hoa). Điều đó xác nhận Văn Tảo là địa phương có điển tích văn học. Truyện nôm khuyết danh Phạm Tải- Ngọc Hoa ra đời thời Lê Mạt đã đóng góp vào nên văn học được đánh giá cao. Thêm vào đó những tư liệu liên quan đến tình hình xã hội đương thời và tư liệu lịch sử kháng chiến, liên quan đến di tích giúp ta nghiên cứu để bổ sung thêm tư liệu cho lịch sử địa phương.

Qua tìm hiểu tổng quan các mặt của di tích, chúng tôi đề nghị Vụ nghiên cứu xếp hạng khu di tích Đền Ngọc Hoa vào loại di tích văn hoá.

VI. Các hiện vật trong di tích.

Hiện tại cụm di tích đình- đền- chùa Văn Tảo ( khu đình, đền) còn lại một số hiện vật và đồ tế tự quý như:

*Đình:

-Một án hương thờ.

-Một bát hương sứ thời Nguyễn chạm rồng chầu nguyệt.

-Hai mâm bồng.

-Một kỷ thờ.

-Hai ống hương.

-Một giá hốt.

-Hai bài vị chạm rồng chầu Nguyệt sơn son thiếp vàng.

-Một cỗ ngai thờ.

-Một đôi kiếm và một kích.

-Một đôi bia thời Nguyễn (bia cúng hậu).

-Hai tượng thờ Đức Thành Hoàng và Tượng Đức Thánh bà ( Vợ Trần Công).

-Hai tượng ông Thiện, ông Ác cao 1.5m.

-Một bức đại tự vào cung cấm sơn son thiếp vàng.

-Một cuốn thần tích, bẩy sắc phong.

*Chùa:

-Hai mươi hai tượng thờ.

-Một bát hương sành thời Nguyễn.

-Một mâm bồng, một bình hương.

-Ba bát hương sứ.

-Một chuông đồng (mới).

*Đền:

-Một bàn thờ.

-Bản văn chạm long văn và có hai con nghê đỡ chúc bản.

-Hai cây nến.

-Hai đài gỗ và một đài bồng.

-Hai mâm bồng.

-Một lọ hương.

-Một bát hương sứ thời Nguyễn chạm lưỡng long chầu nguyệt.

-Một phần của bát xầ mẫu chạm “Tứ hoá".

-Một cỗ ngai thờ.

-Bốn tượng.

-Hai kỷ thờ.

-Hai bia cúng hậu thời Lê và một bia thời Nguyễn.

-Một sắc phong và một hộp sắc.

Những hiện vật hiện có cần được giữ gìn bảo tồn và nghiên cứu thêm.

VII. Giá trị lịch sử, khoa học.

Di tích lịch sử Đền Ngọc Hoa và Đình Văn Tảo được xây dựng vào thời Nguyễn. Tuy cách ngày nay không lâu song nó giúp ta thêm một tư liệu thực tiễn để nghiên cứu về kiến trúc và điêu khắc cổ của dân tộc. Những tư liệu ( thần tích, sắc phong) nói về những nhân vật có thực, giúp ta hiểu thêm về tình hình xã hội thời Lê. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp di tích đã trở thành cơ sở cách mạng, nơi hoạt động bí mật của cán bộ cách mạng. Những tư liệu lịch sử kháng chiến liên quan đến di tích giúp bổ sung thêm tư liệu lịch sử cho địa phương.

Đặc biệt ở  Văn Tảo nơi đây với những nhân vật có thực trong lịch sử như Trần Duy Hiên, Ngọc Hoa - nơi có di tích văn học thế kỷ 18, 19. Truyện nôm khuyết danh Phạm Tải- Ngọc Hoa mà sự tích gắn liền với mảnh đất, con người quê hương. Hiện nay tại Đền thờ Ngọc Hoa có một đạo sắc phong thời Nguyễn, phong cho Trần Thị Ngọc Hoa “ Hiệu Ngọc Lỗi" là quận chúa phu nhân tôn thần. Từ một thực tế lịch sử đã được tác thoại và phi thường, tác phẩm đã thể hiện sự vùng lên đòi giải phóng của những người bị áp bức, nói lên những khát vọng, ước mơ chân chính của người phụ nữ thông minh, có nhân sắc, có nghị lực và có tinh thần phản kháng lại sự vùi dập tàn nhẫn của chế độ phong kiến.

Trong các chuyện nôm, cuộc đấu tranh giữa người lao động bị áp bức với bọn người gian ác, chính và tà bao giờ cũng kết thúc bằng thắng lợi của người nghèo: Vấn đề công bằng xã hội được đề cập. Trong chuyện Phạm Tải- Ngọc Hoa, Diêm vương là thần tượng đại diện cho công lý, xét xử theo ý dân xử Trang Vương bị truất chức phải chịu tội nặng.

Vạc dầu nấu đã ba đông

Bắt vua Trang bỏ vào trong vạc dầu.

Phạm Tải- Ngọc Hoa tái thế hoàn hồn, chung hưởng hạnh phúc, không những thế Phạm Tải còn được lên làm vua và tạo cuộc sống thanh bình, hạnh phúc cho nhân dân.

Từ những nhân vật lịch sử có thật, chuyện nôm Phạm Tải- Ngọc Hoa ra đời đã giáo dục con người có đạo lý, có nhân cách, có lòng nhân đạo cao cả. Gạt bỏ những nét thân thoại hoang đường, tác phẩm cho ta một bức tranh về xã hội đương thời và giúp ta thêm tư liệu văn học về khuynh hướng hiện thực và tính nhân đạo của văn học thế kỷ 18, 19, đặc biệt nghệ thuật độc đáo của truyện nôm khuyết danh.

Với ý nghĩa lịch sử như vậy, di tích có giá trị về mặt lịch sử và văn hoá cần được bảo tồn và phát huy tác dụng trong cuộc sống hiện nay.

VIII.Bảo tồn di tích.

Đền Ngọc Hoa, đình, chùa thôn Văn Tảo xây dựng thời Nguyễn. Thời Pháp thuộc, di tích bị phá bỏ nhiều ( nhà tiền, tam quan và chùa). Di tích dã qua một số lần trùng tu nhỏ nhưng nhân dân không nhớ cụ thể vào năm nào. Với tinh thần trách nhiệm, niềm tự hào về truyền thống văn hoá của mảnh đất Thanh Hà:

“ Đã là con mẹ con cha

Sinh ra ở đất Thanh Hà xứ đông"

Người dân Văn Tảo- Thanh An đã không quản khó khăn và tốn kém đã bảo tồn di tích, di sản văn hoá của địa phương mình. Di tích đã trùng tu và sửa lại toà tiền tế của đền, đình, tam quan. Sau hoà bình lập lại Hợp tác xã có sử dụng nơi đây làm kho, đến năm 1991 nhân dân đã tu sửa, cải tạo kho thành nơi thờ phật. Hiện nay nhân dân đã có dự án cải tạo lại nhà kho cho hợp kiến trúc phong cách chùa để khu di tích được đồng bộ. Xung quanh di tích nhân dân đã xây tường bao và trồng một số cây lâu năm để tăng vẻ đẹp cảnh quan cho di tích.

Di tích hiện đã có người trông và đèn nhang bảo vệ di tích.

IX.Phương án bảo vệ và sử dụng di tích.

Để bảo vệ và đưa di tích vào sư dụng đúng mục đích, có hiệu quả địa phương đã thống nhất:

-Khu vực phía tây di tích ( Trước cửa tam quan) cải tạo trồng cây lâu năm, cây bóng mát tạo cảnh đẹp cho khu di tích.

-Khu vực phía bắc cải tạo ao, tường bao để di tích được khép kín khu nội tự, đảm bảo an ninh khu di tích.

-UBND xã, Ban quản lý di tích xây dựng kế hoạch giáo dục để cán bộ, nhân dân và các thế hệ biết đến giá trị của di tích lịch sử địa phương, khơi dậy truyền thống của địa phương để mọi người có trách nhiệm trong việc bảo tồn phát huy các giá trị của di tích.

-Tuyên truyền nhân dân có ý thức xây dựng và bảo vệ di tích, chính quyền địa phương đã thực sự quan tâm đến việc bảo vệ di tích văn hoá dân tộc ở địa phương, qua đó tạo điều kiện thuận lợi cho di tích phát huy được chức năng của di tích trong điều kiện cuộc sống hiện tại.

X.Cơ sở pháp lý bảo vệ di tích.

Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản về bảo vệ di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh như: Sắc lệnh số :65 ngày 23/11/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh; Nghị định 519/TTg ngày 29/10/1957 của Thủ tướng Chính phủ và nhiều thông tư chỉ thị khác: Pháp lệnh số 14/LCT-HĐNN ngày 31/3/1984; Nghị định số  228/ HĐBT ngày 31/12/1985 cùng nhiều văn bản khác.

Thực hiện pháp lệnh bảo vệ di tích và danh lam thắng cảnh của Nhà nước. Năm 1992 sở Văn hoá thông tin tỉnh Hải Hưng ( nay là sở VHTT - DL tỉnh Hải Dương) đã phối hợp với Phòng văn hoá thông tin huyện Nam Thanh ( nay là Phòng VHTT huyện Thanh Hà) cùng với địa phương Thanh An, cơ sở thôn Văn Tảo đã tiến hành nghiên cứu di tích. Trước giá trị lịch sử của di tích, các cơ quan đã tiến hành lập hồ sơ đề nghị Vụ bảo tồn, bảo tàng – Bộ văn hoá thông tin nghiên cứu xếp hạng di tích. Trên cơ sở đó, địa phương có căn cứ để bảo vệ và phát huy giá trị của di tích, thực hiện tốt điều V trong pháp lệnh số: 14/LG-HĐNN 1984 quy định : “ Di tích lịch sử văn hoá và danh lam thắng cảnh phải được sử dụng vào việc giáo dục truyền thống dựng nước và giữ nước của nhân dân Việt Nam, góp phần giáo dục tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và lòng tự hào dân tộc, phục vụ công tác nghiên cứu, phổ biến khoa học, nghệ thuật và tham quan di tích".

XI.Tài liệu tham khảo.

Để tiến hành khảo sát lập hồ sơ di tích Đền Ngọc Hoa, dựa trên các tài liệu tham khảo sau:

-Lịch sử Việt Nam tập 1.

-Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ 19 - Nhà xuất bản KHXH Hà Nội 1981.

-Nghệ thuật điêu khắc cổ Việt Nam.

-Biên niên lịch sử cổ trung đại Việt Nam.

-Nông thôn Việt Nam trong lịch sử.

-Văn hoá và cư dân đồng bằng sông Hồng – Nhà xuất bản KHXH 1991.

-Truyện nôm khuyết danh Phạm Tải – Ngọc Hoa.

-Văn hoá Việt Nam – XB 1089.

-Luật lệ bảo vệ di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh- Sở VHTT Hải Hưng 1986.

-Lịch sử Đảng bộ và nhân dân Thanh An.

-Thần tích, sắc phong, bia ký ở di tích.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

​